Trường Cao đẳng Y Dược Tuệ Tĩnh Hà Nội
Logo

Cây Mã tiền và vị thuốc sử dụng trên thực tế

Lượt xem: 547 Ngày đăng: 28/04/2023

Rate this post

Mã tiền là vị thuốc Y Học Cổ Truyền, có nhiều công dụng hữu ích đối với sức khỏe con người như thông kinh lạc, chỉ thống, tiêu thũng, mạnh gân cốt và mạnh tỳ vị. Tuy nhiên, vị thuốc Mã tiền có độc tính có thể gây liệt hô hấp dẫn tới tử vong, vì vậy bạn cần thận trọng khi sử dụng vị thuốc này.

Tên khác. Cây Mã tiền còn có tên gọi khác là Phan mộc miết, Mắc sèn sứ, Củ chi…

Tên khoa học: Strychnos pierriana A.W.Hill (hoặc Strychonos nux vomina L).    Tên dược liệu: Semen Strychni.

Họ khoa học: Họ Mã tiền hay Hoàng nàn (Loganiaceae).

Bộ phận dùng: Dùng hạt đã chín được phơi hoặc sấy khô của cây Mã tiền.

  1. tả đặc điểm thực vật

Cây mã tiền là cây thân gỗ cao từ 5 – 12m, thậm chí có thể cao tới 25m, phân cành trên 7m. Vỏ thân cây có màu xám trắng, cành non nhẵn, đôi khi có gai ở nách lá. Lá đơn, mọc đối xứng, mặt trên lá bóng có 5 gân hình cung, gân nhỏ hình mạng.

Cây ra cụm hoa ở nách lá đầu cành, có hình ngù tán, mỗi cụm có 8-10 hoa, 4-6 cụm họp thành tán. Hoa có màu trắng hoặc vàng nhạt, có mùi thơm. Quả mã tiền hình cầu, đường kính từ 2,5 – 4cm. Khi chín quả có màu vàng lục, bên trong c từ 1-5 hạt hình tròn dẹt như chiếc khuy áo, một mặt lồi và một mặt lõm, trên hạt có lông mượt bóng. Mặt hạt phủ một lớp lông tơ bóng mượt mọc ngả theo chiều từ tâm hạt toả ra xung quanh. Rốn hạt là một chỗ lồi nhỏ ở giữa một mặt hạt.

Cây mã tiền mọc hoang ở các vùng núi khắp nước ta.

  1. Thu hái và các cách bào chế vị thuốc Mã tiền.

Vị thuốc Mã tiền là phần hạt của quả Mã tiền. Thu hái dược liệu diễn ra vào mùa đông, hái những quả già mang về bổ ra lấy hạt, loại bỏ phần thịt quả, hạt lép, hạt non hay đen ruột. Những hạt đạt chất lượng sẽ đem phơi nắng hoặc sấy ở nhiệt độ 50 – 60 độ C đến khô.

 –  Bào chế vị thuốc Mã tiền theo Tây y sẽ tiến hành như sau: Rửa nhanh hạt mã tiền bằng nước sau đó đem đồ lên, khi thấy mềm thì thái mỏng. Sau đó xay trong cối sắt, sấy khô, rồi lại tán trong cối bằng sắt kín sẽ thu được bột màu vàng xám, rất đắng, có chứa 2,5% alkaloid toàn phần.

Bào chế vị thuốc Mã tiền theo Trung y sẽ tiến hành như sau: Cho cát vào nồi đất, rang nóng đến 100 độ C, sau đó bỏ hạt mã tiền vào sao nóng tới 200 độ C. Dưới tác dụng của cát nóng hạt mã tiền sẽ phồng lên, nổ lép bép, lớp lông nhung ở ngoài cháy vàng. Rang cho tới khi lớp vỏ ngoài có đường tách nẻ thì lấy hạt và cát ra, sàng bỏ cát. Cho hạt mã tiền vào máy quay cho sạch lông nhung đã bị cháy, rồi đem đi tán bột.

Bào chế vị thuốc Mã tiền theo kinh nghiệm Việt Nam như sau: Trong Y Học Cổ Truyền chỉ sử dụng hạt Mã tiền đã được bào chế (gọi là Mã tiền chế). Có nhiều cách bào chế như sau:

  • Ngâm hạt mã tiền trong nước vo gạo trong một ngày một đêm cho tới khi mềm, lấy ra cạo bỏ vỏ ngoài và mầm, sau đó thái mỏng, sấy khô rồi tán nhỏ.
  • Cho hạt mã tiền vào trong dầu vừng rồi đun sôi cho tới khi hạt mã tiền nổi lên thì vớt ra ngay (nếu chậm sẽ bị cháy đen, mất tác dụng). Sau đó thái nhỏ sấy khô rồi dùng.
  • Ngâm hạt mã tiền trong nước hay nước vo gạo cho tới khi mềm. Lấy ra bóc vỏ để riêng, nhân để riêng. Sao vỏ và lông riêng, sao nhân riêng, rồi tán nhỏ riêng từng thứ. Phương pháp này thường được dùng chữa bệnh chó dại.

 

     Cây Mã tiền mọc hoang ở các vùng núi khắp nước ta.

3. Mô tả dược liệu:

Hạt hình đĩa dẹt, hơi dày lên ở mép; một số hạt hơi méo mó, cong không đều, đường kính 1,2-2,5 cm, dày 0,4-0,6 cm, hơi bóng, màu xám nhạt đến vàng nhạt. Mặt hạt phủ một lớp lông tơ bóng mượt mọc ngả theo chiều từ tâm hạt toả ra xung quanh. Rốn hạt là một chỗ lồi nhỏ ở giữa một mặt hạt. Sống noãn hơi lồi chạy từ rốn hạt đến lỗ noãn (là một điểm nhô cao lên ở trên mép hạt). Hạt có nội nhũ sừng màu vàng nhạt hay hơi xám, rất cứng. Cây mầm nhỏ nằm trong khoảng giữa nội nhũ phía lỗ noãn. Hạt không mùi, vị rất đắng.

4. Tính vị, Quy kinh:

Vị đắng, tính hàn

Quy vào kinh can, tỳ

5. Thành phần hoá học: Nhiều alcaloid, chủ yếu là strychnin và  brucin.

6. Công năng, Chủ trị: Thông (kinh) lạc, giảm đau, tán kết, tiêu thũng, trừ phong thấp và tê bại, mạnh tỳ vị, mạnh gân cốt.
– Trị các chứng viêm, sưng đau, nhọt độc, viêm họng
– Phụ nữ bị viêm âm đạo dùng mã tiền tử ngâm nước khoảng 3 ngày, bóc bỏ lớp vỏ ngoài, phơi nắng phần trong cho khô rồi bỏ vào rang vàng với dầu mè, tán bột đắp lên chỗ sưng
– Đau tê, bại liệt dùng với Cam thảo, Đương quy, Nhũ hương
– Đau nhức cơ bắp dùng Mã tiền tử với Ma hoàng, Nhũ hương, Một dược ngâm rượu đế xoa bóp chỗ sưng đau, (có thể uống với liều nhỏ).

7. Cách dùng, liều lượng:

Mã tiền sống: Dùng dưới dạng ngâm cồn xoa bóp để bên ngoài. (Không dùng với vết thương hở).

Mã tiền chế: Mã tiền dùng trong phải chế  với một số phụ liệu như nước vo gạo, dầu vừng. Dùng dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc. Ngày uống 0,1-0,3g, dùng phối hợp với các thuốc khác, uống lúc no. Trẻ em dưới 3 tuổi không được dùng.

8. Độc tính:
– Mã tiền tử rất độc, thông thường chỉ dùng ngoài. Nếu dùng trong thuốc uống thì phải rang hay chiên với dầu mè để giảm bớt độc tính.
– Nếu dùng quá liều có thể có những triệu chứng như khô cổ, chóng mặt, nhức đầu, tê bại toàn thân, khó thở.

* Nếu trúng độc dùng Quế chi 6g, Cam thảo 60g, Ngũ bội tử 25g sắc uống để giải độc ngay.

9. Kiêng kỵ:
– Phụ nữ có thai cấm dùng
– Chỉ nên dùng ngoài, nếu dùng trong thì chỉ nên dùng ngắn hạn.

DMCA.com Protection Status